Thủ thuật cấy máy tạo nhịp

Thủ thuật như thế nào?

Hàng triệu người đã được cấy máy tạo nhịp. Cấy máy tạo nhịp là thủ thuật được làm hàng ngày. Phần lớn các trường hợp thời gian làm chỉ từ 1 đến 2 giờ, và bệnh nhân nhanh chóng được về nhà chỉ sau một vài ngày. Tuy nhiên mỗi bệnh nhân khác nhau nên thủ thuật cũng khác nhau tùy theo từng bệnh nhân.

Bác sĩ sẽ nói chi tiết về thủ thuật cấy máy cho bệnh nhân và những yêu cầu dành cho bệnh nhân trước khi làm thủ thuật.

Trước khi tiến hành thủ thuật phải làm gì?

Trước khi làm thủ thuật, bác sĩ sẽ nói cho bệnh nhân chuẩn bị làm thủ thuật như thế nào. Bệnh nhân có thể phải ngừng một số thuốc đang dung. Bệnh nhân sẽ không được ăn và uống gì vài giờ trước khi làm thủ thuật. Bác sĩ sẽ xét nghiệm máu trước khi làm thủ thuật và yêu cầu bệnh nhân hoàn thành một số thủ tục trước khi làm thủ tục như: Bảo hiểm, giấy cam kết…

Ngày làm thủ thuật là ngày nào?

Bệnh nhân sẽ được đưa đến phòng mổ và các y tá sẽ sát trùng và làm sạch vùng da ngực hoặc bụng nơi cấy máy. Bệnh nhân sẽ được đặt một đường truyền tĩnh mạch ở tay và theo dõi tăng huyết áp liên tục, điện tâm đồ của bệnh nhân sẽ được theo dõi trong suốt quá trình làm. Phần lớn các bệnh nhân sẽ tỉnh khi làm thủ thuật và chỉ gây tê tại chỗ quanh vùng đặt máy. Nếu cần thiết, một số bệnh nhân sẽ được gây mê toàn thân và khi đó họ sẽ ngủ hoàn toàn.

Quá trình làm thủ thuật như thế nào?

Sau khi vùng da dưới sân đòn được sát trùng và gây tê, bác sĩ sẽ dung dao mổ rạch một đường dài từ 2 đến 4 cm. Bác sĩ sẽ tìm tĩnh mạch và luồn điện cực vào trái tim, màn huỳnh quang sẽ giúp bác sĩ đưa điện cực vào đúng vị trí cần thiết. Bệnh nhân sẽ không cảm thấy điện cực ở trong trái tim mình. Sau đó bác sĩ sẽ tạo một “túi” nhỏ dưới da và cố định máy tạo nhịp vào đó trước khi nối điện cực vào máy. Bác sĩ sẽ kiểm tra hoạt động của máy sao cgo máy hoạt động tốt nhất. Bệnh nhân sẽ cảm thấy căng tức nhẹ khi cấy máy vào dưới da. Nếu quá khó chịu hãy nói ngay với bác sĩ.

Hình 5. Vết mổ sau cấy máy tạo nhịp.

Làm gì sau thủ thuật?

Sau khi làm thủ thuật, bệnh nhân sẽ được trở về phòng điều trị và được y tá theo dõi liên tục. Nếu bệnh nhân cảm thấy đau ở vết mổ thì sẽ được cho uống thuốc giảm đau. Cuối cùng, bác sĩ sẽ kiểm tra lại máy và lập chương trình phù hợp với bệnh nhân. Thường thì bệnh nhân có thể ra viện ngay sau một vài ngày nhưng cũng có thể được theo dõi thêm tại bệnh viện tùy tình trang.

Quá trình sau xuất viện.

Chuyện gì sẽ xảy ra khi bệnh nhân ra viện?

Trong vài ngày đầu sau khi làm thủ thuật, vết mổ cần được băng kín. Sau đó vết mổ sẽ liền lại và bệnh nhân sẽ cảm thấy dễ chịu hơn.

Những điều bệnh nhân nên làm sau phẫu thuật:

- Giữ cho vết mổ luôn khô và sạch. Nếu như vết mổ nóng, đỏ, sưng lên, đau và chảy dịch thì bệnh nhân cần phải báo cho bác sĩ ngay lập tức,

- Tuân theo những chỉ dẫn của bác sĩ khi vệ sinh cơ thể, thay băng vết mổ và tập lại các hoạt động thể lực.

- Chỉ sử dụng gạc mềm phủ lên vết mổ. Tránh các cử động mạnh, đột ngột. Khi vết mổ lành thì bệnh nhân có thể tăng dần cử động và hoạt động trở lại như bình thường.

- Không sờ mó và day ấn vùng đặt máy tạo nhịp.

- Luôn giữ mối liên hệ với các bác sĩ.

- Luôn giữ giấy chứng nhận máy và phiếu bảo hành.

- Nếu bệnh nhân thấy không cải thiện các triệu chứng sau khi cấy máy hãy liên hệ ngay với bác sĩ.

Khi nào bệnh nhân cần khám lại?

Bệnh nhân sẽ đến khám lại tại phòng khám chuyên khoa. Sau khi thăm khám lâm sàng, bác sĩ sẽ gắn các điện cực điện tâm đồ lên ngực bệnh nhân. Sau đó sẽ dùng máy lập chương trình kiểm tra toàn bộ hoạt động của máy tạo nhịp và ghi nhận những đáp ứng của tim bệnh nhân với máy tạo nhịp tim. Bác sĩ sẽ điều chỉnh hoạt động của máy cho phù hợp với bệnh nhân mà không cần lấy máy ra. Tất cả các việc trên đều không khiến cho bệnh nhân cảm thấy đau đớn. Các bác sĩ cũng sẽ kiểm tra thời gian còn lại của pin. Bệnh nhân nên nói những vấn đề sức khỏe của mình cho bác sĩ để có thể điều chỉnh máy tạo nhịp cho hợp lý.

Khi nào bệnh nhân có thể quay trở lại cuộc sống bình thường?

Thời gian lành vết mổ của bệnh nhân trung bình khoảng 7 ngày và bệnh nhân nên hạn chế vận động trong vòng một đến hai tháng sau đó, trước khi quay trở lại các hoạt động bình thường như: Lái xe, chơi thể thao hay đi du lịch…